Thứ Sáu, 31 tháng 12, 2010

Giá trị cuộc sống
TTO - Ếch và ốc sên chung sống trong cái đầm nhỏ. Ốc sên lúc nào cũng cau có, không bao giờ nói chuyện với ếch.

Ếch không hiểu vì sao nên cố gắng tìm mọi cách gặp gỡ, giúp đỡ ốc sên nhưng ốc sên vẫn lạnh lùng với ếch. Buồn quá, một hôm ếch tìm gặp ốc sên và hỏi:
- Là xóm giềng với nhau, tôi có làm gì sai thì anh cứ nói để tôi còn sửa. Cứ mãi thế này tôi không chịu được.
Ốc sên giận dỗi:
- Mỗi lần thấy anh là tôi buồn cho bản thân tôi, tôi giận ông trời sao sinh ra anh gọn gàng, mạnh khoẻ, muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì cũng dễ dàng. Còn tôi sinh ra phải mang cái vỏ cứng, nặng nề lên mình, đi đâu hay làm gì cũng chậm chạp…
Ốc sên vừa dứt lời bỗng có con chim bói cá bay qua, ốc sên vội vã chui mình vào trong cái vỏ cứng cáp. Còn con ếch tội nghiệp dù cố gắng vẫn bị chim bói cá quắp mang đi… Cuộc sống luôn công bằng, không cho ai tất cả và không lấy đi của ai tất cả. Điều quan trọng là mọi người phải tự nhận ra và sống hết mình với những gì đang có.
Cô gái nọ có thể không xinh đẹp nhưng có tấm lòng đôn hậu, vị tha và biết trân trọng những tình cảm hiếm hoi đến với mình. Anh thanh niên kia dù thất bại trên thương trường nhưng từ những thất bại, anh rút ra kinh nghiệm quý báu mà không phải ai cũng có…
Và tình yêu cũng vậy, ai từng yêu, từng dang dở mối tình đầu sẽ nhận thấy phút chốc ta trưởng thành, trân trọng tình cảm hơn và biết nuôi dưỡng những dở dang trở thành khát vọng.

Thứ Sáu, 10 tháng 12, 2010

MỘT SỐ VẤN ĐỀ RÚT RA SAU KHI GIẢNG DẠY TRUYỆN NGẮN “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” CỦA NGUYỄN MINH CHÂU.


I.ĐẶT VẤN ĐỀ:

Chương trình cải cách Ngữ văn của PTTH đã được thực hiện đến năm thứ ba, ở cấp lớp rất quan trong: lớp cuối cấp. Nội dung chương trình khá phong phú với nhiều tác phẩm có giá trị của văn học Việt Nam và văn học thế giới. Đặc biệt, một số tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại mới được đưa vào giảng dạy đã tạo ra sự hứng thú của cả giáo viên lẫn học sinh. Đó là những tác phẩm mang hơi thở cuộc sống, đặt ra những vấn đề thời sự nóng hổi, được tác giả thể hiện bằng bút pháp độc đáo, tài hoa, lôi cuốn người đọc. Tuy nhiên, để tìm hiểu và tiếp nhận giá trị nội dung, nghệ thuật của những tác phẩm đó không phải là dễ dàng. Người giáo viên trong vai trò của người tổ chức, hướng dẫn càng phải trăn trở nhiều hơn, suy tư nhiều hơn để giúp cho học sinh đến với tác phẩm văn học thật trọn vẹn.
Một trong những tác phẩm như vậy là truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Truyện ngắn đánh dấu những tìm tòi đổi mới của tác giả đồng thời đề cập đến nhiều vấn đề của cuộc sống và nghệ thuật. Việc tổ chức giờ dạy và học, tìm hiểu tác phẩm vẫn còn nhiều vấn đề cần suy nghĩ, nghiên cứu sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Trong nội dung bài viết này, người viết chỉ xin đưa ra một số suy nghĩ của cá nhân sau một năm giảng dạy chương trình ngữ văn 12. Đặc biệt là việc tổ chức giờ dạy tác phẩm truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa ( Nguyễn Minh Châu). Những suy nghĩ nay được rút ra từ thực tế giảng dạy cho đối tương học sinh là học viên Trung tâm Giáo dục thường xuyên. Chắc chắn bài viết còn nhiều thiếu sót. Mong quí thầy cô đóng góp, nhận xét để được hoàn chỉnh hơn.
Bài viết gồm các nội dung chính:
-                     Một số thuận lợi và khó khăn trong việc giảng dạy tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.
-                     Một số giải pháp để tổ chức dạy và học tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.
-                     Phản hồi từ học sinh.
II. NỘI DUNG:
1. Một số thuận lợi và khó khăn khi giảng dạy truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu:
- Thuận lợi: Truyện ngắn có đề tài gần gũi với cuộc sống đương đại, học viên dễ tiếp thu. Vấn đề tác phẩm đặt ra gợi nhiều hướng suy nghĩ, dễ tạo được không khí tranh luận sôi nổi, khơi mở khả năng sáng tạo, lôi cuốn người học. Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn Minh Châu cũng là một nhà văn đã được tìm hiểu từ Trung học cơ sở. Điều đó tạo thuận lợi trong quá trình học tập tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa. Đồng thời tác phẩm này cũng là một tác phẩm rất phù hợp với việc tổ chức giờ học theo phương pháp đổi mới, phát huy tính chủ động, sáng tạo của học viên.
- Khó khăn: Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là một tác phẩm mang tính luận đề. Chủ đề của tác phẩm không đơn giản. Tác phẩm có nhiều tầng ý nghĩa, đặc biệt lại thể hiện quan điểm nghệ thuật của tác giả một cách sâu sắc, qua tình huống nhận thức, với một “nghệ thuật trần thuật dòng ý thức” (Theo “Một số vấn đề về đổi mới nội dung và phương pháp giảng day ngữ văn” – Chương III). Với trình độ có nhiều hạn chế của học viên Trung tâm GDTX thì việc tiếp nhận tác phẩm sẽ gặp rất nhiều khó khăn, đòi hỏi người giáo viên phải có sự đầu tư trong thiết kế bài giảng sao cho phù hợp với trình độ người học mà vẫn đảm bảo chuyển tải được khối lượng kiến thức cần thiết.
Nếu việc tổ chức giờ dạy và học không thành công sẽ dễ dẫn đến việc cảm và hiểu tác phẩm một cách hời hợt, học vẹt mà không hiểu hết các tầng ý nghĩa của tác phẩm, không thấy được giá tri tư tưởng sâu sắc và phong cách nghệ thuật đặc sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu, dẫn đến chán nản.

2. Một số giải pháp tổ chức dạy và học tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa:
Xuất phát từ những thuận lợi, khó khăn như nhận định trên đây được rút ra từ thực tế dạy và học, người viết xin đưa ra một số ý về việc tổ chức giờ học tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa:
2.1. Xác định mục tiêu cần đạt thật cụ thể, rõ ràng:
- Về nội dung tư tưởng:
¹Giúp học sinh nắm được giá tri nội dung, tư tưởng của tác phẩm, thấy được tấm lòng nhân ái của nhà văn: quan tâm tới những số phân nhỏ bé, trăn trở trước cái đói, cái nghèo, nạn bạo hành trong gia đình còn gây ra bao đau khổ cho con người: đồng thời cũng khám phá , ngợi ca những phẩm chất cao đẹp của con người, tin tưởng vào con người.
¹Giúp học sinh thấy được quan điểm nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu: Nghệ thuật phải gắn với cuộc sống, phải vì cuộc sống của con người. Người nghệ sĩ phải biết yêu ghét, vui buồn trước mọi lẽ đời thường; phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều về cuộc sống.
- Về giá trị nghệ thuật: Học sinh thấy được bút pháp nghệ thuật đặc sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
¹Xây dựng cốt truyện độc đáo, tạo tình huống nhận thức. Tình huống đó được lặp lại nhiều lần, đẩy lên cao trào và ngày càng xoáy sâu hơn để phát hiện tính cách con người, phát hiện sự thật cuộc đời
¹Ngôn ngữ trần thuật sắc sảo, giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ nhân vật linh hoạt, phù hợp với tính cách của từng người, góp phần khắc sâu thêm chủ đề - tư tưởng của truyện ngắn.

2.2. Động viên học sinh chuẩn bị bài trước khi tiến hành tiết học tác phẩm:
- Tìm tư liệu về đời sống những người dân vạn chài ( báo chí, văn học, điện ảnh…)
- Sưu tầm tranh ảnh nghệ thuật về cảnh sinh hoat của người dân vùng biển, cảnh đẹp thiên nhiên sông, biển…
- Đọc tác phẩm, soạn bài, tìm hiểu về tác giả Nguyễn Minh Châu để tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp nhận tác phẩm.
- Tổ chức các nhóm học tập, chuẩn bị thực hiện thao tác thảo luận cho tốt trong giờ lên lớp.

2.3. Khai thác truyên ngắn Chiếc thuyền ngoài xa theo hướng bóc tách từng lớp nghĩa, đi từ dễ đến khó:
- Hình tượng bức ảnh tuyệt mĩ mà nghệ sĩ Phùng chụp được: Phùng coi đó là hiện thân của cái đẹp, mà theo anh thì “ bản thân cái đẹp là đạo đức”. Anh như bắt gặp cái khoảnh khắc mà tâm hồn mình được thanh lọc. Đó là quan điểm duy mỹ, tôn thờ cái đẹp. Nó cho thấy Phùng là người nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, khao khát khám phá cái đẹp của cuộc sống. Đó cũng là một nét trong vẻ đẹp tâm hồn của anh. Tuy nhiên, với phát hiện thứ nhất này của Phùng, anh có cái nhìn vẫn chưa phải là toàn diện về cái đẹp và cuộc sống, nhất là khi anh có một phát hiện bất ngờ thứ hai ngay sau phát hiện thứ nhất .
- Sự thật cuộc sống sau bức ảnh tuyệt đẹp: những người dân chài nghèo khổ, cảnh gia đình đầy bi kịch, khổ đau. Như vậy, tấm ảnh chỉ là cái hiện thực bên ngoài của cuộc sống, chiếc thuyền cuộc sống mới chỉ được nhìn ngắm từ xa nên người nghệ sĩ mới chỉ nhìn thấy vẻ bên ngoài đầy thi vị mà chưa thấu hiểu được sự thật cuộc đời vốn có nhiều đắng cay, ngang trái. Từ đó, tác phẩm đặt ra vấn đề về cự li tìm hiểu cuộc sống của người nghệ sĩ. “ Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa nhưng sự thật cuộc đời lại ở rất gần, đừng vì nghê thuật mà quên cuộc đời” ( Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn Ngữ văn 2009 – Nguyễn Khắc Bình , Nguyễn Duy Kha).
Giáo viên nên gợi mở cho học sinh bàn bạc về thái độ của Phùng trước cảnh gia đình hàng chài. Từ đó các em sẽ rút ra nhận xét về người nghệ sĩ Phùng – hóa thân cuả Nguyễn Minh Châu: Đó là người nghệ sĩ đầy trách nhiệm với cuộc sống, căm ghét các ác, sự bất công, sẵn sàng làm tất cả vì cái Thiện, vì lẽ công bằng. Chỉ có người nghệ sĩ như thế mới có thể khám phá ra cái Chân, Thiện, Mĩ của cuộc sống. Đó cũng là một vấn đề thuộc về quan điểm nghệ thuật của tác giả.
Phát hiện thứ hai của Phùng khiến cho anh nhận ra cảnh tượng tuyệt đẹp mà anh chứng kiến lại chẳng phải là đạo đức, chân lí của sự toàn thiện. Một bức ảnh đẹp cũng chẳng còn đẹp nữa nếu như đằng sau nó là sự bạo hành của cái ác. Từ đó, hoc sinh có thể rút ra vấn đề là cái đẹp nghệ thuật phải gắn với cuộc sống con người thì nó mới có ý nghĩa và có giá trị thực sự. Đó cũng là một điều thuộc về quan điểm nghệ thuật của nhà văn.
- Phát hiện quan trọng nhất của nghệ sĩ Phùng: Vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà hàng chài. Với bản chất của người lính cách mạng, Phùng không thể chấp nhận việc người đàn bà phải chịu sự hành hạ tàn nhẫn của người chồng vũ phu. Và anh bàng hoàng nhận thấy chị ta tình nguyện chấp nhận cuộc sống đó, cương quyết không rời bỏ người chồng. Ngay sau đó, lời tâm sự chân thành của chị đã giúp Phùng và Đẩu vỡ lẽ ra nhiều điều. Phùng thấy được tấm lòng yêu thương bao la, đức hi sinh, sự bao dung, vị tha cao quý, những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc sống của chị đã khiến cho chị từ chỗ đáng thương trở lên đáng kính. Cái đẹp trong tâm hồn người đàn bà mới chính là cái đẹp đích thực của cuộc sống, trở thành sự cứu rỗi, thành chỗ dựa và niềm tin vào cái Thiện nhất định sẽ chiến thắng cái Ác.
Hình tượng người đàn bà là hình tượng rất quan trọng, đòi hỏi thầy và trò có sự đầu tư trong việc tìm hiểu nhân vật này. Cần gợi ý cho các em tìm thấy những nét đẹp có tính truyền thống trong tính cách người đàn bà, so sánh với những nhân vật người phụ nữ như bà cụ Tứ ( Vợ Nhặt – Kim Lân), Má của Việt ( Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi)… Đồng thời cũng đề nghị học sinh tìm ra những nét đẹp mà tác giả Nguyễn Minh Châu đã khám phá ra như những “hạt ngọc tâm hồn” của con người Việt Nam thời hiện đại .
Sau này, Phùng ngắm nhìn tấm ảnh thì luôn nhận thấy từ chiếc thuyền thơ mộng kia thấp thoáng bóng dáng người đàn bà bước ra. Do cảm nghiệm sâu sắc của Phùng mà anh đã nhận ra được cái đẹp đích thực của cuộc sống nằm ở vẻ đẹp của tâm hồn con người.
Quá trình “nhận thức lại” của Phùng cũng chính là sự trăn trở của người nghệ sĩ để tìm đến với quan điểm nghệ thuật chân chính: Nghệ thuật vị nhân sinh.
Từ đó, tác giả đặt ra vấn đề: Phải có cái nhìn đa dạng, nhiều chiều để nhìn nhận đúng đắn về cuộc sống và con người. Đối với người nghệ sĩ thì điều đó lại càng quan trọng.

SƠ ĐỒ QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC LẠI CỦA NGHỆ SĨ PHÙNG:
Bức ảnh đẹp ®  Cảnh bạo hành     ®  Vẻ đẹp tâm hồn người đàn bà
         â                         â                                    â
Hạnh phúc  ® Sửng sốt  thất vọng ®   Cảm phục, tin tưởng
Ä Đi từ quan điểm duy mỹ đến quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh: Cái đẹp nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời.
2.4. Đặt học sinhvào trong tình huống truyện để các em có sự chiêm nghiệm, lí giải sâu sắc:
- Chú ý tới hệ thống câu hỏi gợi mở và câu hỏi thảo luận:
● Em nghĩ gì về cách xử sự của người đàn bà? Theo em, chị cứ phải cam chịu mãi, hi sinh mãi vì hạnh phúc gia đình hay sao? Nếu là em thì em sẽ làm như thế nào?
● Em có suy nghĩ gì về nhân vật thằng Phác? Hành động chống lại cha của Phác có đáng được cảm thông hay không, vì sao? Theo em, nhà văn muốn bày tỏ điều gì qua nhân vật Phác? Nếu em là Phác thì sao?
● Trong truyện ngắn, nhà văn trăn trở nhất là về vấn đề gì? Em nhận xét gì về nhân cách Nguyễn Minh Châu? Theo em, làm thế nào giải quyết được bi kịch cuộc sống mà nhà văn đưa ra trong tác phẩm?
● Quan niệm nghệ  thuật của tác giả thể hiện trong cách ứng xử của nhân vật nghệ sĩ Phùng. Em thử phân tích điều đó?
● Truyện Chiếc thuyền ngòai xa thể hiện những tìm tòi đổi mới của Nguyễn Minh Châu trong bút pháp truyện ngắn. Liên hệ với một số truyện ngắn đã học trong chương trình lớp 12, em hãy chỉ ra những tìm tòi đổi mới đó?
- Tổ chức nhóm học tập, nhóm thảo luận thật khoa học và hiệu quả:
● Chia nhóm cố định, theo tổ học tập, thành phần bao gồm cả em khá giỏi và trung bình, yếu. Có cử nhóm trưởng, thư kí.
● Tạo điều kiện để tất cả các nhóm được trình bày ý kiến. Chuẩn bị thì như nhau nhưng khi trình bày, có thể mỗi nhóm trình bày một mảng vấn đề.
● Cần cho điểm hoặc có hình thức khen thưởng để kích thích tinh thần làm việc nhóm. Đây là kĩ năng vô cùng cần thiết mà học sinh GDTX còn yếu. Người giáo viên phải kiên trì rèn luyện cho các em. Đến khi đã hình thành được kĩ năng thì rất thuận lợi cho việc học tập.
Một tác phẩm luận đề như truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa đòi hỏi tổ chức giờ học theo hướng tổ chức thảo luận, tìm hiểu thật sâu sắc. Đó là cách tối ưu để học sinh tiếp nhận tác phẩm thật tốt.
5. Vấn đề tổ chức hướng dẫn học sinh tìm hiểu bút pháp nghệ thuật của truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa:
Một thực trạng có thể thấy được là học sinh GDTX chưa có những kiến thức lí luận văn học để có thể tìm hiểu thấu đáo những điều thuộc về đặc trưng của thể loại văn học. Các thầy cô cũng chưa có sự quan tâm đúng mức trong việc trang bị kiến thức lí luận văn học cho các em. Đó là khó khăn trong việc giúp các em thấy được những đặc sắc, sáng tạo của Nguyễn Minh Châu thể hiện ở tác phẩm này.
Vừa qua, tổ Văn trung tâm GDTX Tân Bình có tổ chức một chuyên đề tìm hiểu truyện ngắn trong chương trình ngữ văn học kìII lớp 12. Trong đó, bài viết “ Một số vấn đề thi pháp truyện ngắn Việt Nam hiện đại” của cô Triệu Thị Kim Loan đã đem lại hứng thú cho học sinh và cung cấp cho các em nhũng kiến thức quí giá để tìm hiểu truyện ngắn:
● Khái niệm về truyện ngắn.
● Đặc trưng của truyện ngắn: về dung lượng nhỏ, về cốt truyện, về tình huống, chi tiết, kết cấu, phương thức trần thuật, hệ thống nhân vật…
Theo tôi, việc tổ chức những chuyên đề như vậy là cần thiết và có hiệu quả, nên phát huy, nhất là khi số lượng bài li luận văn học trong chương trình Ngữ Văn PTTH chưa phải đã đầy đủ và sâu sắc.
Riêng đối với tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, cần lưu ý các em phân tích tình huống truyện có tính nhận thức, cách trần thuật sắc sảo và chân thật của nhà văn, đặc biệt cần giúp các em thấy được tính chất triết lí sâu sắc và đầy giá trị nhân văn của truyện ngắn.
Vấn đề các hình ảnh có tính chất biểu tượng cũng cần được lưu ý tìm hiểu đúng mức. Đó là các biểu tượng:
● Chiếc thuyền ngoài xa.
● Bãi xe tăng.
● Tấm ảnh nghệ thuật.
Không nên áp đặt mà cần gợi mở để các em tự rút ra ý nghĩa sâu sắc của hình tượng văn học, đảm bảo tính đa nghĩa của tác phẩm.

III. KẾT LUẬN:
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học và việc tìm hiểu tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa( Nguyễn Minh Châu) hẳn sẽ còn nhiều ý kiến tranh luận. Trên đây, người viết chỉ xin đưa ra một vài suy nghĩ đúc kết sau những tiết giảng dạy tác phẩm trong thực tế, những suy nghĩ đó hẳn cũng chưa đầy đủ chiều rộng và chiều sâu. Nhưng người viết có thể cảm nhận rất rõ: truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là một tác phẩm có giá trị, cả về nội dung tư tưởng và bút pháp nghệ thuật. Cần phải giúp cho học sinh cảm nhận được giá trị đó, để bồi dưỡng cho các em không phải chỉ là kiến thức văn học mà còn vun đắp tâm hồn, đánh thức các em về trách nhiệm với cuộc đời, quan tâm tới thực tế cuộc sống còn nhiều đói nghèo, bất trắc của một bộ phận nhân dân. Đó cũng là vấn đề quan trọng của giới trẻ hôm nay.

Thứ Tư, 8 tháng 12, 2010

SO SÁNH VỀ MẶT NỘI DUNG


SO SÁNH VỀ MẶT NỘI DUNG
GIỮA “CHÍ PHÈO” VÀ “AQ CHÍNH TRUYỆN”
Thạc sĩ: Lý Thị Quỳnh Anh.
1. Chí Phèo và AQ chính truyện đều lên án bọn phong kiến địa chủ và đồng cảm với thân phận người nông dân
Cả hai tác phẩm đều lên án sự áp bức bóc lột về mặt vật chất, thân xác cùng sự đầu độc đè nén về mặt tinh thần của bọn địa chủ phong kiến đối với người nông dân. Những bộ “mặt người dạ thú” như Bá Kiến, Đội Tảo, như Cố Triệu, Cố Tiền… đã bị lật tẩy khi chúng giở hết mọi mánh khoé, tiểu xảo của những kẻ lọc lõi, già đời ra để cai trị, bóc lột những con người khốn khổ sống ở tầng lớp dưới đáy của xã hội. Nam Cao và Lỗ Tấn đều bộc lộ tấm lòng đau đớn của mình trước những số phận của người nông dân. Cuộc đời những Binh Chức, Chí Phèo, Năm Thọ, những AQ, Cu D, Vương Râu Xồm… mà hai ông miêu tả khiến mọi người không khỏi chạnh lòng.
Xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử xã hội của hai nước Việt Nam và Trung Quốc trong giai đoạn này rơi vào tình trạng vừa thuộc điạ vừa phong kiến, nông dân bị bần cùng, còn giai cấp thống trị lại ra sức càn quét, bóc lột. Hơn nữa ở đây còn thể hiện sự gặp gỡ ngẫu nhiên giữa hai tâm hồn, nhân cách lớn - Nam Cao và Lỗ Tấn, hai nhà văn hiện thực và nhân đạo chủ nghĩa đã khiến cho nội dung hai tác phẩm có sự tương đồng.
2. Riêng AQ chính truyện còn phê phán cuộc cách mạng tư sản nửa vời
Sự kiện “cách mạng” mà Lỗ Tấn miêu tả trong tác phẩm đã làm người dân Làng Mùi không khỏi ngỡ ngàng. Cách mạng đến không ai biết, thực chất cuộc cách mạng này là gì không ai hay, cách mạng đến người sợ kẻ hoang mang, riêng chú AQ rất hồ hởi, phấn khởi muốn đi làm “cách mạng”, vì chú cho rằng làm “cách mạng” tức là “làm giặc”, mà làm giặc tức là được đi cướp của cải của nhà giàu về cho mình. Sự xuất hiện của cách mạng nửa vời và sự thiếu hiểu biết về cách mạng của người nông dân đã mang lại một kết quả thảm hại.
Đây là bóng dáng cuộc cách mạng Tân Hợi (1911), một cuộc cách mạng tư sản nửa vời chưa từng có ở Việt Nam, cho nên cũng không thể nào có được sự phản ánh trong “Chí Phèo” nhưng đó chỉ là một mặt của vấn đề. Ở đây còn phải xét đến nguyên nhân ở chủ quan nhà văn. Đầu những năm 20 của thế kỷ này, tuy chưa là người Mác Xít theo đường lối cách mạng, nhưng Lỗ Tấn đã là người có tư tưởng cách mạng dân chủ mới. Bản thân việc ông phê phán tính chất nửa vời của cuộc cách mạng Tân Hợi, chứng tỏ ông có tư tưởng cách mạng triệt để, ông phê phán cái lối hiểu dớ dẩn của AQ về cách mạng, chứng tỏ ông mong muốn giác ngộ người nông dân có tư tưởng cách mạng thật sự. Trái lại, Nam Cao chỉ là một trí thức văn nghệ sĩ yêu nước, yêu dân, chứ hoàn toàn chưa có tư tưởng cách mạng. Phải nêu ra điều này mới có thể giải thích rằng ở Việt Nam tuy không có cuộc cách mạng tư sản nhưng sau khởi nghĩa Yên Bái, lại có cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, khởi nghĩa Bắc Sơn, Đô Lương, khởi nghĩa Nam Kỳ v.v… Ra đời sau “AQ chính truyện” 20 năm, “Chí Phèo” vẫn không có chút bóng dáng nào về cuộc đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân.
SO SÁNH GIỮA HAI ĐIỂN HÌNH CHÍ PHÈO VÀ AQ
1. Chí Phèo và AQ đều có cuộc sống bần cùng, tính cách mâu thuẫn và tha hoá
a) Cuộc sống bần cùng
Cả AQ và Chí Phèo đều có chung một thân phận khổ cực. Cả hai đều chịu nhiều đau khổ về cuộc sống vật chất và tinh thần. Chí Phèo thì bị bỏ rơi ở bên một cái lò gạch bỏ hoang, không cha, không mẹ, không họ hàng nhà cửa… AQ lớn lên “hành trạng” trước kia cũng không rõ, thân phận cũng chẳng còn ai, không có gì ngoài bản thân. Cả hai đều phải sống bằng nghề đi làm thuê, chịu nhiều tủi cực. Với thân phận nghèo hèn muốn yên phận để làm mướn kiếm ăn, nhưng số phận cả hai cũng không yên ổn. Chí Phèo gặp Thị Nở cuộc đời hoá ra càng trở nên bi kịch và sống vật vã trong cơn đau bị cự tuyệt quyền làm người. AQ hy vọng một sự đổi đời, khi cách mạng đến, nhưng thực tế đã đi ngược lại với mong muốn của y.
b) Tính cách mâu thuẫn, tha hoá
Cuộc sống của Chí Phèo và AQ luôn bị động vì hoàn cảnh đưa đẩy. Chính vì thế tính cách AQ và Chí Phèo hoàn toàn không bình thường, nó mâu thuẫn và tha hoá. Một Chí Phèo lương thiện là vậy, nay trở thành “con quỷ dữ” côn đồ, lưu manh. Một Chí Phèo, một thời ý thức về nhân phẩm rõ ràng. Nay bỗng trở nên hoàn toàn vô thức trong mọi hoạt động của mình. Một Chí Phèo dương dương tự đắc, bỗng chốc lại trở nên lo lắng sợ sệt trước con cáo già Bá Kiến v.v… Một AQ dở dở ương ương, lúc thế này lúc thế kia, lúc khôn lúc dại. Lúc vênh vênh đi bắt nạt kẻ yếu lúc lại rụt cổ trước kẻ mạnh. Lúc tự cao, nhưng có lúc lại tự ti, lúc lại tỏ ra mình có những suy nghĩ rất phong kiến nhưng có lúc lại thả mình sống theo bản năng v.v…
Xã hội phong kiến, thuộc địa không những áp bức bóc lột về mặt vật chất, thân xác mà còn đầu độc và đè nén về mặt tinh thần đối với người nông dân cùng khổ, làm cho tính cách của họ trở nên méo mó. Đây là sự gặp gỡ giữa Nam Cao và Lỗ Tấn trong việc xây dựng về những điển hình về người nông dân.
2. Phép “thắng lợi tinh thần” - Ý nghĩa khái quát riêng có ở điển hình AQ
Tuy có một cuộc sống bần cùng, luôn thua thiệt nhưng AQ đã tạo cho mình một ảo giác thắng lợi, mà trong bất cứ một thực tế nào y cũng là người chiến thắng. Y sung sướng vì luôn cho mình hơn tất cả mọi người về tất cả mọi mặt trong cuộc sống, nào là gia thế hơn, con cái hơn, hiểu biết cũng nhiều hơn. Thật ra, cuộc sống của y rất bi đát, y tồn tại và luôn hớn hở nhờ phép “thắng lợi tinh thần”.
Phê phán cái “thắng lợi” ở điển hình AQ, nhà văn Lỗ Tấn đã khái quát từ quá khứ đau thương trong lịch sử Trung Quốc. Từ xã hội tư hữu phong kiến, từ chế độ đẳng cấp tôn pháp đến sự thất bại nhưng không cam chịu của triều đình Mãn Thanh - Một căn bệnh lan tràn đến quy mô toàn dân vì “tư tưởng thống trị thời đại là tư tưởng của giai cấp thống trị”, như ý Mác nói.
Tóm lại, Chí Phèo và AQ đều là điển hình cho người nông dân lạc hậu tha hoá. Nhưng bộc lộ “phép thắng lợi tinh thần”, AQ còn mang tính chất điển hình cho mặt trái của dân tộc Trung Hoa, nhất là trong thời kỳ thuộc địa.

SO SÁNH MỘT SỐ BIỂU HIỆN NGHỆ THUẬT GIỮA HAI TÁC PHẨM

Nếu sự tương đồng và khác biệt về nội dung và nhân vật điển hình trong “Chí Phèo” và “AQ chính truyện” là gắn bó chặt chẽ với nhau, thì sự giống nhau và khác nhau về mặt nghệ thuật giữa hai tác phẩm tuy cũng có liên quan với những mặt nói trên, nhưng cũng mang tính chất tương đối độc lập của nó.
1. Những mặt tương đồng
a) Giọng điệu khách quan lạnh lùng
Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm “Chí Phèo” và “AQ chính truyện”, một cảm nhận bao trùm về lối trần thuật trong mỗi tác phẩm là: giọng điệu khách quan lạnh lùng nhưng chan chứa tình cảm chủ quan của tác giả.
Nam Cao kể về cuộc sống chân thực, trần trụi như nó vốn có: chuyện một thằng say rượu, chuyện kình nhau giữa các phe cánh, chuyện yêu đương của những kẻ gàn dở… Nhưng đọc và ngẫm lại những chuyện đó, ta thấy nhà văn kể không phải chỉ để kể, mà qua những câu chuyện tưởng như vặt vãnh đời thường lại là chuyện về một chế độ xã hội mà ở đó nhân quyền không được tôn trọng, nó bị giẫm đạp, xúc phạm như đối xử với con vật. Lời trần thuật của người kể chuyện như một “ống kính” quay hình ảnh về những hành vi của “con quỷ dữ” làng Vũ Đại: rạch mặt, ăn vạ, cướp của, đốt quán, làm tay sai cho địa chủ làm những việc bất lương… Lời trần thuật khách quan khiến người đọc có cảm giác ghê sợ, nhưng đó là cảm giác do ý đồ sáng tạo của nhà văn mang lại.
Cũng phong cách đó, ta bắt gặp ở nhà văn Lỗ Tấn trong “AQ chính truyện” kể về cuộc đời chú AQ sống vô nghĩa bằng những hành động và suy nghĩ ngớ ngẩn của mình. Người kể chuyện dường như không có ý định bênh vực một chút gì cho con người của y: tên y, bộ dạng y, con người y, thân phận y, tính cách y v.v… tất cả đều bộc lộ sự thảm hại. Nhưng đấy không phải là mục đích của ông. Với lối trần thuật khách quan, ông muốn phơi bày nhược điểm của con người và xã hội Trung Quốc. Ý đồ nghệ thuật đã giúp ông thành công khi sử dụng lối trần thuật khách quan lạnh lùng như ẩn chứa những yêu thương và căm giận bên trong.
b) Ngôn ngữ cá tính hoá
Nam Cao và Lỗ Tấn đã sử dụng ngôn ngữ cá tính hoá của nhân vật rất đặc sắc. Lời đối thoại của nhân vật cho ta thấy tính cách nhân vật nổi lên rất rõ.
Chí Phèo lúc còn hầu hạ nhà chủ, hầu như tác giả không miêu tả một lời nói của nhân vật, điều đó đã phản ánh sự nhẫn nại, cam chịu của kiếp người nông dân nô lệ. Nhưng sự thay đổi tính cách của Chí sau khi ra tù đã bộc lộ rõ khi hắn cất tiếng ăn vạ, kêu làng, đốt nhà, cướp của… phẩm chất hiền lành biến mất, thay vào đó là lời lẽ của kẻ lưu manh, côn đồ. Nhưng trước Bá Kiến, hắn vẫn bộc lộ bản chất nô lệ khi xưng hô rất tử tế.
Trong “AQ chính truyện”, Lỗ Tấn cũng đặc biệt chú ý đến từng lời nói nhân vật, qua đó làm nổi lên tính cách của chú. AQ lúc bị thua trước đối thủ mạnh, luôn giở giọng cầu hoà. Nhưng trước kẻ yếu đuối, hay với người cùng thân phận y lại lên giọng chửi bới rất khinh thị. Vú Ngò chỉ nói có hai câu, nhưng chính Vú đã làm bộc lộ tính “ngồi lê đôi mách” của mình v.v…

2. Những điểm khác biệt
a) Trần thuật tuyến tính và phi tuyến tính
Tác phẩm “AQ chính truyện” được trần thuật theo một trình tự nhất định, nhân vật xuất hiện và sau đó là những hành động, sự kiện diễn ra nói chung theo trình tự trước sau.
Với “Chí Phèo” cách trần thuật của Nam Cao có khác. Hình ảnh đầu tiên không phải là hình ảnh bắt đầu, mà cốt truyện hiện ra trong sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại của nhân vật.
Mỗi nhà văn chọn cho mình một lối trần thuật riêng. Lỗ Tấn trần thuật theo trình tự thời gian, còn Nam Cao ông không tuân theo lối trần thuật truyền thống. Nhưng cả hai cách trình bày đều làm nổi bật giá trị nội dung của tác phẩm.
b) “Vẽ rồng điểm mắt” và khắc hoạ tỉ mỉ
Nếu như Nam Cao không hề bỏ qua một chi tiết nhỏ nào khi khắc hoạ ngoại hình nhân vật: Như bộ dạng Chí sau khi ra tù, gương mặt xấu xí đến kinh hồn của Thị Nở, thì Lỗ Tấn với bút pháp “vẽ rồng điểm mắt” chỉ miêu tả vài nét sơ lược giàu tính biểu trưng, như miêu tả ngoại hình AQ, Lỗ Tấn chỉ miêu tả chiếc đuôi sam và đặc biệt là cái sẹo. Miêu tả ngoại hình Vương Râu Xồm, nhà văn chú ý đến mớ râu xồm có ý nghĩa tượng trưng nhất đối với y v.v… Nhưng tất cả sự miêu tả những chi tiết chọn lọc, điển hình đó đều toát lên tính cách nhân vật.
c) Mô tả tâm lý và mô tả hành động
Ngòi bút Nam Cao luôn hướng vào khai thác, soi sáng thế giới bên trong trong con người nhân vật, mọi tâm trạng, suy nghĩ của Chí luôn được nhà văn thể hiện dưới dạng nội tâm, con người và tính cách của hắn chủ yếu bộc lộ qua tâm lý. Nhưng với nhân vật của Lỗ Tấn, chúng thường bộc lộ qua hành động. AQ bộc lộ tính cách của mình qua những hành động của y: đánh nhau, chửi rủa, lườm nguýt…
Tóm lại: Với những đặc điểm như trần thuật theo thời gian tuyến tính, “vẽ rồng điểm mắt”, mô tả hành động, “AQ chính truyện” gần giống với lối văn xuôi tự sự cổ điển Trung Quốc. Trái lại, với lối trần thuật phi tuyến tính, khắc hoạ tỉ mỉ, mô tả tâm lý, “Chí Phèo” gần với lối văn xuôi thế giới thế kỷ XX hơn. Trên một ý nghĩa nhất định, cách viết của Nam Cao hiện đại hơn. Điều này không phải ngẫu nhiên. Một điều không phải là không có ý nghĩa gì, nếu chúng ta nhớ rằng, cách nhau 34 tuổi, Lỗ Tấn đã bước vào tuổi trưởng thành ngay từ cuối thế kỷ XIX, còn Nam Cao sống trọn trong nửa đầu thế kỷ XX. “Chí Phèo” được Nam Cao viết sau “AQ chính truyện” sau 20 năm, có điều kiện nhiều hơn khi tiếp cận với lối viết hiện đại. Mặt khác Trung Quốc với di sản văn hoá, văn học hết sức đồ sộ với những thành tựu vô cùng rực rỡ đã trở thành niềm tự hào của dân tộc Trung Hoa. Bởi vậy những mẫu mực trong văn hoá cổ điển đã trở thành áp lực rất lớn đối với nhiều nhà văn Trung Quốc nói chung, nhà văn Lỗ Tấn nói riêng, cho nên sự ảnh hưởng của nghệ thuật văn xuôi tự sự truyền thống đối với sáng tác của Lỗ Tấn là điều dễ hiểu. Trái lại, thành tựu về văn xuôi tự sự trung đại ở Việt Nam chủ yếu là chữ Hán không gây áp lực gì đối với văn xuôi tự sự quốc ngữ vào đầu thế kỷ XX trên quá trình hiện đại hoá nhanh chóng. Nam Cao lại thuộc thế hệ sau, vừa được thừa hưởng tính chất hiện đại đó, vừa có nhiều điều kiện học tập, tiếp thu văn xuôi tự sự thế giới khoảng giữa thế kỷ XX.
Cần lưu ý thêm rằng, Lỗ Tấn không những là nhà sáng tác mà còn là nghiên cứu văn học sử nhất là về tiểu thuyết, cho nên thừa hưởng được lối viết tinh hoa truyền thống là không có gì lạ. Cố nhiên Lỗ Tấn cũng là người tiếp xúc với nền văn học nước ngoài, nhưng chủ yếu là cuối thế kỷ XIX như GôGôn; Sêkhốp, Tôn Xtôi, trong đó có một phần không nhỏ là những nhà thơ lớn như Pêtôghin, Mickêvit, v.v… còn việc ông rất chú ý đến tác giả Xô Viết như M.Goorki, đến Phêđêép v.v… nhưng đó chủ yếu là để khơi nguồn những tư tưởng của tình cảm mới, chứ không phải để hấp thụ nghệ thuật tự sự hiện đại.
Tóm lại, một cách hết sức vắn tắt thì “Chí Phèo” và “AQ chính truyện” đều là những kiệt tác viết về số phận người nông dân lạc hậu, tha hoá trong xã hội phong kiến thuộc địa và nửa thuộc địa. Nhưng trong “AQ chính truyện” còn phê phán cuộc cách mạng tư sản nửa vời, điều này có căn nguyên chủ yếu ở hiện thực khách quan. Về mặt điển hình hoá, Lỗ Tấn tỏ ra càng sâu sắc hơn, vì ông không những là nhà văn, mà còn là nhà nghiên cứu văn học sử, hơn nữa là nhà tư tưởng. Tuy nhiên, về nghệ thuật viết truyện, Nam Cao có phần hiện đại hơn.







Thứ Ba, 7 tháng 12, 2010

MẸ LÀ AI

                                                     Nhà thơ Xuân Quỳnh viết về người mẹ của chồng mình mà khi đọc lên sức lôi cuốn của những câu thơ của bà khiến người ta không thể không tự hỏi: phải chăng Xuân Quỳnh đang nhắc cho chúng ta về một người mẹ hiền mà đã quá lâu chúng ta quên bẵng?

Phải đâu mẹ của riêng anh
Mẹ là mẹ của chúng mình đấy thôi
Mẹ tuy không đẻ không nuôi
Mà em ơn mẹ suốt đời chưa xong
Ngày xưa má mẹ cũng hồng
Bên anh mẹ thức lo từng cơn đau
Bây giờ tóc mẹ trắng phau
Để cho mái tóc trên đầu anh đen
Giữa làn hoa cỏ núi sông
Giữ lòng thương Mẹ mênh mông không bờ
Chắt chiu từ những ngày xưa
Mẹ xin anh để bây giờ cho em

Hình ảnh nghèo khó của làng quê Việt Nam với những mái tranh nghèo và những gia đình đôi khi neo đơn đến tội nghiệp đã đi vào văn chương Việt Nam với khả năng gây xao động lòng người. Trong những mái tranh nghèo ấy tình mẹ lại càng toả sáng biết bao nhiêu với những thân cò lặn lội.
Người con ao ước mua cho mẹ mình những miếng trầu thơm cay và cứ mỗi khi đi ngang hàng trầu thì niềm ao ước ấy lại càng mãnh liệt. Đến khi có thể mua miếng trầu cho mẹ thì bà đâu còn nữa. Người con gái tội nghiệp cũng là nhà thơ Nguyễn Thị Mai kể lại trong nước mắt.


"Mẹ ơi?
Thơm cay một miếng trầu xưa
Mà con phải bớt tiền mua vì nghèo
Bây giờ đã bớt gieo neo
Lại không còn mẹ mà chìu. Khổ không?
Từ ngày đưa mẹ ra đồng
Qua hàng trầu vỏ con không dám vào"




Có một điểm chung của những bà mẹ Việt Nam là sự khó nhọc nuôi con cùng những hy sinh vô bờ đã khiến bà trở thành biểu tượng của điều thiêng liêng mà chúng ta ai cũng có một.
"À à ời, À à ơi...
Cái ngủ, mày ngủ cho lâu,
Mẹ mày đi cấy đồng sâu, chưa về,
Bắt được con trắm con trê,
Cầm cổ lôi về, cho cái ngủ nó ăn.
À à ời, À à ơi..."


Và hình ảnh người Mẹ già thui thủi một mình trên cánh đồng chiều đông buốt giá
"Thương nhiều lắm dáng mẹ lom khom
Cúi trên ruộng đồng chiều đông buốt giá,
Nặng gánh rau chợ tàn chiều muộn,
Chắt chiu tiền nhàu nát gửi con xa.
Tim thổn thức, nước mắt cứ trào ra
Khi cầm trên tay tờ bạc nhàu cũ nát."


Và hình ảnh người mẹ của nhà thơ Thanh Vân cho thấy sự vất vả của bà trên cánh đồng như thế nào:
"Mẹ tôi bước xuống đồng sâu
Ngọn cỏ ngóc đầu sắc tựa mũi chông
Mẹ tôi ngã quỵ xuống đồng
Cây lúa đòng đòng đỡ mẹ đứng lên."


Nhà thơ Vương Trọng khi đến tuổi 70 khi nằm chiêm bao thấy lại mẹ mình với những câu thơ đau sót:

"Đã có lần con khóc giữa chiêm bao
Khi hình mẹ hiện về năm khốn khó
Đồng sau lụt đường đê sụt lở,
Mẹ gánh gồng xộc xệch hoàng hôn.
Anh em con chịu đói suốt ngày tròn,
Trong chạng vạng ngồi co ro bậu cửa.
Có gì nấu đâu mà nhóm lửa
Ngô hay khoai còn ở phía mẹ về
Chiêm bao ta nước mắt dầm dề
Con gọi Mẹ một mình trong đêm vắng
Dù biết lời con chẳng thể nào vang vọng
Tới vuông đất Mẹ nằm lưng núi quê hương."

Hình ảnh của mẹ hiền ăn sâu vào tiềm thức của người con xa quê như một vết thương không bao giờ lành. Thao thức nhớ mẹ là tình cảnh chung và nhà thơ Hoàng Phố, sống cách Việt Nam nửa vòng trái đất mượn bạn mình đến nhà để thăm bà trong khi heo hút:
"Mày có đi làm ghé chơi thăm má
mua một tô mì cho má giùm tao
nhớ thêm bột nêm vào trong hoành thánh
tánh má từ xưa vẫn thích ngọt ngào

Nếu má hỏi mày làm ăn có khá
cũng ráng mà cười nói được nghe chưa
tính má hay buồn nghe ai thất bại
bốn chục năm rồi má vẫn như xưa

Khi mày ra về cũng nên hẹn lại
sẽ đến thăm khi rảnh rỗi việc nhà
má như trẻ thơ thích ngồi nói mãi
những chuyện ngày xưa hồi còn có ba

Ừ mà tao quên mày đốt cho ba
một nén nhang thơm cho má mát lòng
bởi tao đi rồi là hai hình bóng
nay đã mất tăm vừa con vừa chồng..."


Nhà thơ Trần Trung Đạo cũng ở xa nhà , xa rất xa nhưng cũng hạnh phúc hơn khi còn nghe ra giọng nói yêu dấu của mẹ mình:
"Nhắc chiếc phone lên bỗng lặng người
Tiếng ai như tiếng lá thu rơi
Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ
Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi."


Và rồi nhà thơ thở dài với những cách trở mà ông không hy vọng gì san lấp được. Ông chỉ còn niềm mơ ước duy nhất nhưng chừng như niềm mơ ước này cũng chỉ là thiên thu mà thôi...



"Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn
Bên đời gió tạt với mưa tuôn
Con đi góp lá nghìn phương lại
Đốt lửa cho đời tan khói sương

Tiếng mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm bao
Mẹ xa xôi quá làm sao vói
Biết đến bao giờ trông thấy nhau

Đừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ
Đau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ

Nhắc chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.

Ví dầu tình bậu muốn thôi
Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra.
Bửa nay lên giỗ bên chồng
Tay bưng quả nếp tay bồng con thơ."





Những chiếc bông hồng tượng trưng cho những người còn mẹ là một phong tục đẹp của người Nhật và đi sâu vào lòng chúng ta từ nhiều năm qua. Khi cánh hoa hồng biến thành màu trắng thì nỗi bất hạnh cũng ập xuống cuộc đời. Nhà thơ Trần Kiêu Bạc trở về nhà thẩn thờ sau khi chôn cất mẹ: Khi nắm đất sau cùng lắp kín mộ sâu
Con trở về nhà một mình trống vắng
Trên ngực con nở đoá hoa hồng trắng
Quỳ trước bàn thờ cam phận mồ côi


Với nhà thơ Thu Nguyệt thì niềm đau có khác như màu trắng hoa cà na từ đây dưới mắt nhà thơ đã chớm mang một màu tang chế:


"Ngày mẹ mất bông cà na rụng trắng
Hoa như mưa nhoè nhoẹt rối tơi bời
Trong nắm đất con lấp từ biệt mẹ
Có rất nhiều những cánh hoa rơi.

Hoa cũng như đời mẹ, mẹ ơi!
Nở lặng lẽ và rơi lặng lẽ
Cô đơn nào hơn những người mẹ trẻ
Con chưa đủ lớn khôn để chia sẻ vui buồn.

Giọng ru buồn len lén hoàng hôn
Ba mươi năm sau đời con mới hiểu
Nỗi cô đơn mẹ âm thầm gánh chịu
Nhiều như bông cỏ dại quê mình."


Nhà thơ Vương Trọng cho chúng ta những khúc hát đẫm nước mắt như trong giấc mơ mà nhà thơ trải qua:
"Con lang thang vất vưởng giữa đời thường,
Đâu cũng sống không đâu thành quê được.
Còn quê mẹ cuối chân trời tít tắp,
Con ít về từ ngày mẹ ra đi.
Đêm tha hương con tìm lại những gì
Với đời thực chẳng bao giờ gặp nữa.
Mong hình mẹ lại hiện về giấc ngủ
Dù thêm lần con khóc giữa chiêm bao."


Người mẹ trong tâm thức Việt Nam vẫn luôn sáng lên niềm hy vọng tuyệt đối. Là chỗ nương thân, là bóng mát, là đại dương, hay là gì chăng nữa vẫn không nói hết được tình yêu của bà đối với con thơ. Ngày Mother's Day, nghĩ về mẹ một chút cũng là diễm phúc vì con biết con đã và đang từng có mẹ...

Hãy phân tích đoạn thơ sau đây:

“Tây tiến đòan binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
(Tây Tiến_Quang Dũng).

                     “Tây Tiến” là bài thơ hay nhất của Quang Dũng và cũng là bài thơ tuyệt bút viết về “anh cụ Hồ” trong kháng chiến chống Pháp. Quang dũng vừa là nhà thơ nhưng cũng là chiến sĩ trên mặt trận. Ông viết về đồng đội, về đoàn binh Tây Tiến thân yêu của mình với tất cả lòng yêu mến tự hào mãnh liệt. Thơ của Quang Dũng nóng bỏng hào khí chiến trường của anh Vệ quốc quân những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Sau một thời gian xa đơn vị và đồng đội thân yêu, ông viết bài thơ Tây Tiến này vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một địa điểm bên bờ dòng sông Đáy hiền hòa. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ và niềm tự hào của đoàn binh Tây Tiến, đối với con sông Mã và núi rừng miền Tây xa xôi. Đó là nỗi nhớ chơi với bao kỉ niệm đẹp và cảm động một thời trận mạc đầy gian khổ, hy sinh. Đây là đọan thơ thứ ba trong bài thơ Tây Tiến, đã khắc họa khí phách anh hùng và tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ trong máu lửa.
“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
…………………………………..
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Trên những nẻo đường hành quân chiến đấu, đoàn binh Tây Tiến đã muôn trùng khó khăn phải đối diện với những nguy hiểm thử thách của thiên nhiên Tây Bắc. Họ đã đấu tranh để tiến về phía Tây trong cuộc kháng chiến chống Pháp cùng với nhân dân Lào. Trong cuộc hành quân, những bệnh tật luôn đi bên họ, luôn rình rập những nguy hiểm “Đêm đêm mường hịch cọp trêu người”. Và, họ, những con người trong máu lửa xuất hiện trong bút pháp hiện thực của nhà thơ, vừa trần trụi nhưng thật lãng mạn:
“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm”.
Cái hình dáng ấy không mấy gì đẹp đẽ với “Quân xanh màu lá” và “đầu không mọc tóc”, nó tương phản với “dữ oai hùm” một nét chạm khắc tài tình làm nổi bật chí khí hiên ngang, tinh thần quả cảm xung trận của các đoàn binh Tây Tiến từng làm cho giặc phải khiếp sợ. Chúng ta biết, núi rừng Tây Bắc được nhà thơ miêu tả không những trắc trở mà còn đầy những nguy hiểm. Người lính xuất hiện với hình dạng “không mọc tóc”, đây là thảm trạng của rừng thiêng nhưng “không mọc tóc” cũng có thể bởi vì không muốn mọc tóc. Chi tiết thể hiện sự ngang tàng của người lính. Bút pháp tả thực không chỉ dừng lại ở đó, mà “quân xanh màu lá” nó vừa bậc lên sự xanh xao của màu da thịt, với những cơn sốt rét rừng hoành hành. Song, lại còn có một cách hiểu là về nguồn gốc của “cái màu xanh ấy”, đó là màu xanh mà bộ đội ta ngụy trang. Nói cho cùng, Quang Dũng đã trung thành với bút pháp hiện thực khi miêu tả về những khó khăn bệnh tật mà người lính gặp phải. Đọc hai câu thơ, tôi thấy được cái hay của Quang Dũng, ông ta miêu tả cái hiện thực để làm rõ cái nền của thiên nhiên, bên cạnh đó, ông đang trang điểm cho người lính thêm một họa tiết rất hay. Đó là “giữ oai hùm”. Cụm động từ xuất hiện trong sự tương phản của những cái gay gắt và khó khăn nhất. Hình ảnh này mang tính chất ẩn dụ và nói lên tính kế thừa, sáng tạo của nhà thơ. Các chiến binh “Sát Thát” đời Trần “Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu” (Phạm Ngũ Lão); “Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói” (Trương Hán Siêu). Nghĩa quân Lam Sơn xung trận trong khí thế “bình Ngô”: “Sĩ tốt kén tay tỳ hổ - bề tôi bọn kẻ vuốt nanh”. Với niềm tự hào ấy, Quang Dũng đã cho ra đời câu thơ “Quân xanh màu lá giữ oai hùm” như một niềm tự hào của nhà thơ. Quang dũng đã lấy cái “thô”, cái “mộc” để tô đậm cái đẹp, cái dũng khí ấn chứa trong tâm hồn người chiến sĩ.
Với những gian ác hiểm trở, khó khăn…nhưng ở họ, vẫn có những ước mơ những giấc mộng rất đẹp và đầy lãng mạn:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Mộng” và “” gửi về hai phía chân trời: biên giới và Hà Nội, nơi có đầy bóng giặc. “Mắt trừng”, hình ảnh thể hiện nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của người lính trong khói lửa ác liệt. “Mộng qua biên giới”- mộng tiêu diệt thù, bảo vệ biên cương, lập nên chiến công nêu cao anh hùng của đoàn binh Tây Tiến. Lại có thêm một giấc mơ về phố cũ yêu thương. Rất phong tình và tài hoa.
Xuất thân của các chiến sĩ Tây Tiến là những học sinh, sinh viên đã xếp bút nghiên đi theo tiếng gọi của non sông. Họ là những thanh nhiên giàu lòng yêu nước và rất hào hoa:
 “Từ thưở mang gươm đi giữ nước
Nghìn năm muôn thương nhớ đất Thăng Long
(Huỳnh Văn Nghệ)
Sống giữa núi rừng gian khổ, ác liệt, cái chất bủa vây, lửa đạn mịt mù, nhưng các chiến sĩ vẫn mơ về Hà Nội. Làm sao họ quên được những hàng me, có “Gió mùa thu hương cốm mới”, “Những phố dài xao xác hơi may?”(Nguyễn Đình Thi)…và, làm sao có thể xóa được hình dáng của dáng kiều thơm với “Cuộc chia tay chói ngời sắc đỏ” (Nguyễn Mỹ). Dáng kiều thơm, hình ảnh thề hiện sự khám phá của nhà thơ. Bút pháp lãng mạn tạo nên tính thẩm mỹ trong câu thơ. Chẳng hạn ở “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi:
Những đêm dài hành quâ nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”.
Cho đến Hữu Loan, “Màu tím hoa sim” cũng làm nên tinh thần của vẻ đẹp lãng mạn:
…”Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến tranh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ nhỏ, bé bỏng chiều quê…”
Dường chăng, trong văn học cách mạng, hình ảnh người chiến sĩ trong cái vẫy vùng khói lửa thường xuất hiện hình ảnh của người con gái. Đã có Tây Tiến của Quang Dũng và “Cuộc chia tay màu đỏ” của Nguyễn Mỹ. Những lời thơ làm nên hình ảnh đẹp đẽ và mang đầy tính lãng mạn của Tây Tiến, của những người lính cụ Hồ.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Trong gian khổ hi sinh những năm dài chiến trận, bao đồng đội của nhà thơ đã ngã xuống trên chiến trường miền Tây. Họ nằm lại chân đèo, góc núi. Nấm mồ của người chiến sĩ “rải rác biên cương”. Câu thơ gợi cho lòng ta nhiểu thương cảm biết bao tự hào: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Nếu tách hai câu trên ra khỏi đoạn thơ thì nó tựa như bức tranh xám lạnh, ảm đạm và hắt hiu. Nhưng nằm trong văn cảnh, đoạn văn câu thơ tiếp theo: ”Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” thì nó đã nâng cao chí khí và tầm vóc người lính. Các anh ra trận vì một lý tưởng rất đẹp. “đời xanh” là đời trai trẻ, là tuổi thanh xuân của “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng…”, những học sinh, sinh viên Hà Nội. Họ lên đường đầu quân vì nghĩa lớn của chí làm trai. Ho “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Câu thơ “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết đem xương máu để bảo vệ tổ độc lập, tự do cho tổ quốc. anh bộ đội cũng như nhân dân ta đã đứng lên kháng chiến với quyết tâm sắt đá: “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh). Quang Dũng đã ghi lại một cách chân thực, cảm động cảnh tượng bi tráng trên chiến trường miền Tây thưở ấy:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Các tráng sĩ xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh. Các chiến sĩ Tây Tiến với các manh chiếu đơn sơ, với tấm áo bào bình dị ấy, thế là: “anh về đất”. Một cái chết nhẹ nhàng, thanh thản. Anh ra trận giết giặc vì quê hương. Anh ngã xuống “về đất” để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm lặng thanh thản, nhẹ nhàng, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng của những anh hùng vô danh. Người chiến binh Tây Tiến đã sống và chiến đấu cho quê hương, đã chết vì đất nước quê hương. “Anh về đất” bằng tất cả tấm lòng chung thủy của người chiến sĩ. Tiếng thác sông Mã “gầm lên” giữa núi rừng miền tây như tiếng kèn trong bài “Chiêu hồn liệt sĩ” tống tiễn linh hồn các anh về nơi an giấc ngàn thu. Câu thơ “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” là một câu thơ hay vì gợi tả không khí thiêng liêng, trang trọng, đồng thời tạo nên âm thanh rất đặc sắc, bên cạnh những từ ngữ bình dị thời lính như: gục, không mọc tóc, dữ, trừng, về đất, chiếu, gầm, lên… lại có một số từ Hán Việt như: mộng, mơ, biên giới, dáng kiều thơm, biên cương, viễn xứ, áo bào, khúc độc hành, - nhờ đó mà cái bình làm nổi bật cái cao cả thiêng liêng, cái bình thường tô đậm cái anh hùng, vĩ đại. Chất bi tráng về màu sắc lãng mạn của vần thơ đã tỏa rộng trong không gian và chiều dài lịch sử, vĩnh hằng như một tượng đài chiến thắng!
Đoạn thơ trên là đoạn thơ viết về chân dung người lính trong bài thơ “Tây Tiến” là đoạn thơ hay nhất. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được nhà thơ kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và cảm xúc, tạo nên những câu thơ “có hồn”. Người lính đã sống anh dũng, chất vẻ vang. Hình tượng người chiến sĩ Tây Tiến mãi mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng về anh bộ đội cụ Hồ đã in sâu trong tâm hồn dân tộc. “Ai lên tây bắc mùa xuân ấy”… đồng đội nhà thơ ai còn, ai mất? Nửa thế kỉ đã trôi qua, hình ảnh các anh hùng tây tiến vẫn chói ngời sông núi:
“Tây tiến đòan binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm”